Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, tỷ giá là gì và vai trò của nó ngày càng trở nên quan trọng đối với các quốc gia và nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái là thước đo giá trị tương đối giữa hai đồng tiền, phản ánh sức mua và sức mạnh kinh tế của một quốc gia.
Bài viết hôm nay của DSC Tài Chính Số sẽ đi sâu vào định nghĩa, phân loại các loại tỷ giá khác nhau dựa trên nghiệp vụ, hình thức giao dịch và mục đích sử dụng. Đồng thời, chúng ta sẽ khám phá những yếu tố chủ quan và khách quan dẫn đến biến động tỷ giá, từ tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tiền tệ đến các sự kiện toàn cầu.
Đặc biệt, bài viết sẽ phân tích chi tiết tác động của biến động tỷ giá đến nền kinh tế, các ngành xuất nhập khẩu, lạm phát, dòng vốn đầu tư nước ngoài, và chi phí doanh nghiệp. Cuối cùng, chúng ta sẽ tìm hiểu các biện pháp điều hành tỷ giá của chính phủ, những ứng dụng của tỷ giá trong hoạt động đầu tư, cùng với các ví dụ thực tế về tác động của tỷ giá đến thị trường chứng khoán và giá trị cổ phiếu doanh nghiệp, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về một trong những các chỉ tiêu kinh tế chính hàng đầu này.
Trong bối cảnh thời kỳ kinh tế toàn cầu hội nhập như hiện nay thì khái niệm tỷ giá hối đoái ngày càng được quan tâm rộng rãi bởi nhu cầu xuất nhập khẩu và trao đổi tiền tệ giữa các nước là rất lớn. Vậy tỷ giá là gì và nó có tác động như thế n ào tới nền kinh tế hay thị trường chứng khoán.
Trước tiên về khái niệm, Tỷ giá là tỷ lệ trao đổi đồng tiền, phản ánh mối quan hệ về mặt giá trị giữa đồng tiền của 2 quốc gia, ví dụ như tỷ giá USD/VND là 24.000 được hiểu là 1 usd đổi được 24k VND.
Tại Việt Nam, ngân hàng nhà nước (NHNN) sẽ đưa ra mức tỷ giá trung tâm, dựa theo cung/cầu của thị trường cho từng cặp tỷ giá phổ biến. Dựa vào đó, các NHTM sẽ phải giao dịch mua, bán ngoại tệ trong một mức biên nhất định, được tính toán dựa trên tỷ giá trung tâm (ví dụ: giá mua, bán USD/VND không được vượt quá 5% tỷ giá trung tâm).
Tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong việc phản ảnh điều kiện kinh tế, quản lý rủi ro tỷ giá và phục vụ các mục tiêu chính sách tài chính của mỗi quốc gia, vì vậy chúng sẽ được phân loại dựa trên nghiệp vụ và các cơ chế riêng:
Các ngân hàng thương mại được phép giao dịch tỷ giá USD/VND trong một biên độ dao động (Benchmark) nhất định xung quanh tỷ giá trung tâm mà SBV công bố, hiện tại, biên độ này được quy định bởi SBV và thường dao động trong khoảng +/-3%. Tỷ giá chính thức thường được niêm yết tại các ngân hàng và là cơ sở xác định các loại tỷ giá khác.
Từ những ảnh hưởng đến tỷ giá ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, ta có thể thấy có rất nhiều lí do gây ra biến động tỷ giá. Sự biến động tỷ giá xảy ra do sự thay đổi trong cung cầu đối với các loại tiền tệ, xuất phát từ các yếu tố như lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ, cán cân thương mại, và các yếu tố chính trị-xã hội. Khi các yếu tố này thay đổi, giá trị của đồng tiền so với các đồng tiền khác cũng thay đổi, dẫn đến biến động tỷ giá hối đoái.
Một quốc giá có tình hình chính trị ổn định, không có sự bất ổn, ưu đãi thúc đẩy và phát triển nền kinh tế thường sẽ tạo ra sức hấp dẫn lớn đến NĐT. Chính trị ổn định, không bất ổn hay xung đột, tập trung vào sản xuất kinh doanh gia tăng thu nhập người dân sẽ giúp nền kinh tế đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng, tạo ra sự yên tâm cho NĐT nước ngoài khi đổ vốn vào thị trường trong nước. Từ đó, họ thường sẽ phải chuyển đổi lượng lớn ngoại tệ làm tăng nguồn cung, dẫn đến những ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Ngoài các yếu tố về chính trị, sự ổn định của nền kinh tế cũng có mói liên hệ vô cùng chặt chẽ đến biến động tỷ giá ngoại tệ. Trong đó, lạm phát đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chính sách tỷ giá của Chính phủ và NHNN. Khi lạm phát cao, sức mua đồng tiền trong nước suy yếu, dẫn đến việc giá trị đồng tiền trong nước yếu đi so với các quốc gia khác. Từ đó, để kiểm soát tăng trưởng lạm phát, chính phủ có thể thực hiện các biện pháp can thiệp vào thị trường tiền tệ, như giảm cung tiền hoặc tăng lãi suất. Những hành động này có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của tỷ giá hối đoái, làm cho đồng tiền trong nước càng yếu đi, dẫn tới tỷ giá ngoại tệ tăng cao.
Sự ổn định và tính tin cậy của nền kinh tế còn dựa vào tình hình nợ công, khi con số này ảnh hưởng trực tiếp đến độ xếp hạng tín nhiệm của quốc gia. Nợ công cao dẫn đến việc các tổ chức đánh giá tín nhiệm hạ thấp xếp hạng tín dụng của quốc gia. Khi đó, chi phí vay mượn có thể tăng lên do uy tín tín dụng giảm, gây khó khăn trong việc vay mượn với các quốc gia khác. Ngoài ra, điều này cũng có ảnh hưởng mãnh mẽ đến tâm lý NĐT, xuất hiện tâm lý lo ngại trong giới đầu tư về khả năng thanh toán của chính phủ. Các nhà đầu tư có thể bán tháo đồng tiền của quốc gia đó để chuyển sang những đồng tiền ổn định hơn, dẫn đến giảm giá trị của đồng tiền trong nước.
Về cơ bản, các quốc gia luôn muốn đồng tiền nội địa không bị mất giá trị so với đồng tiền các quốc gia khác. Khi lạm phát tăng quá cao, dẫn tới giá trị đồng tiền trong nước suy giảm giá, mất dần giá trị. Vì vậy, để duy trì và gia tăng giá trị đồng tiền nội địa, ổn định tỷ giá hối đoái, lạm phát cần được duy trì ở mức ổn định và có kiểm soát và các chính sách của nhà nước góp phần vô cùng quan trọng trong việc theo dõi và bình ổn lạm phát trong phạm vi kiểm soát.
Lãi suất chính là công cụ được nhà nước ban hành nhằm kiểm soát lạm phát và bảo vệ nền kinh tế trong nước. Trái với lạm phát, lãi suất cao có thể thu hút dòng tiền chảy vào đồng nội tệ và làm tăng giá trị của nó, khi nhiều nhà đầu tư mua đồng tiền có lãi suất cao để cho vay nhằm thu lãi nhiều hơn, từ đó tỷ giá ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm.
Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh tình hình thu – chi thực tế bằng ngoại tệ của một nước trên thị trường thương mại quốc tế. Khi tình hình cho thấy sự bội chi (chi > thu), dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ gia tăng, làm tăng tỷ giá hối đoái. Và ngược lại, khi cán cân thanh toán cho thấy sự thặng dư (thu > chi), từ đó nhu cầu về đồng nội tệ tăng, do đó làm giảm tỷ giá hối đoái.
Biến động giá cả các mặt hàng có giá trị đầu tư chủ lực như dầu mỏ, vàng, hay các kim loại đá quý đều có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Với các quốc gia xuất khẩu các mặt hàng này, khí giá trị hàng hóa tăng, giá trị đồng nội tệ các nước đó cũng gia tăng theo do nhu cầu đối với đồng tiền. Ngược lại, với các quốc gia nhập khẩu, việc tăng giá các mặt hàng này sẽ làm suy yếu giá trị đồng tiền các nước đó, do áp lực từ cán cân thương mại.
Khủng hoảng tài chính 2008, khủng hoảng nợ công châu Âu 2013 – 2014 hay đại dịch Covid-19,… đều gây ra ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế thế giới nói chung, gây ra biến động mạnh trên thị trường hối đoái. Trong tình hình kinh tế có nhiều bất ổn, người dân thường lựa chọn các sản phẩm đầu tư mạnh và ổn định như USD hay vàng, từ đó làm yếu đi các đồng tiền nội địa của các quốc gia khác.
Các tổ chức như Cục dự trữ Liên Bang (FED), Cục Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), hoặc các hiệp định thương mại quốc tế cũng có thể tác động đến tỷ giá thông qua các chương trình cứu trợ, điều chỉnh nợ, hoặc các quy định về giao dịch tiền tệ.
Có thể kể đến như những đợt FED giảm lãi suất hàng năm, lúc này giá trị đồng USD sẽ suy giảm giúp cho nhà đầu tư có xu hướng chuyển tiền sang các tài sản hoặc thị trường khác có lãi suất cao hơn để tối ưu hóa lợi nhuận.
Ngoài ra, các quốc gia có liên kết thương mại chặt chẽ với Mỹ hoặc có đồng tiền phụ thuộc vào USD, chẳng hạn như những quốc gia sử dụng đồng tiền neo theo USD, sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.
Tâm lý nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối toàn cầu, bao gồm lo ngại về rủi ro, đầu cơ và các kỳ vọng tương lai, đều có thể ảnh hưởng đến tỷ giá. Ví dụ, khi có khủng hoảng niềm tin hoặc lo ngại về sự suy thoái kinh tế, các nhà đầu tư thường đổ xô mua những tài sản an toàn, làm tăng giá trị của những đồng tiền được coi là an toàn (như USD, CHF, hoặc JPY).
Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia, khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nghĩa với việc đồng nội tệ giảm, khi đó giá trị hàng hóa nhập khẩu sẽ gia tăng, giá cả hàng hóa nhập khẩu đến tay người tiêu dùng sẽ cao hơn. Ngược lại, khi tỷ giá giảm và giá trị đồng nội tệ tăng, khi đó hàng hóa và dịch vụ trong nước sẽ trở nên đắt đỏ hơn. Vì vậy, Chính phủ mỗi quốc gia cần có những chính sách phù hợp để cân bằng cán cân xuất nhập khẩu nhằm ổn định tỷ giá và giá trị đồng tiền của quốc gia đó.
Biến động tỷ giá hối đoái tạo ra những ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình lạm phát của một quốc gia trong nền kinh tế mở. Khi tỷ giá tăng, chi phí nhập khẩu hàng hóa và nguyên vật liệu từ nước ngoài cũng sẽ gia tăng, kéo theo giá thành phẩm đến tay người tiêu dùng, gây ra lạm phát nhập khẩu. Đặc biệt, những hàng hóa như nguyên liệu thô, nhiên liệu hoặc các sản phẩm tiêu dùng chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Khi tỷ giá biến động theo chiều ngược lại, các chi phí từ đó sẽ suy giảm theo, hạ giá sản phẩm và dịch vụ trong nước, giúp giảm áp lực từ lạm phát.
Lãi suất là công cụ giúp cho chính phủ điều hành dòng tiền nội tệ cho nền kinh tế, và cũng có mối liên hệ mật thiết với lạm phát, cũng như tỷ giá hối đoái của một quốc gia. Tỷ giá gia tăng, đồng nghĩa với việc động tiện nội địa mất giá trị, từ đó Ngân hàng Trung ương có thể tăng lãi suất để thu hút dòng vốn ngoại tệ vào và làm giảm áp lực mất giá lên đồng tiền. Việc tăng lãi suất cũng giúp kiềm chế lạm phát bằng cách giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.
Mặc dù khi đồng tiền của một quốc gia giảm giá so với đồng tiền của đối tác đầu tư của nó, việc đầu tư vào quốc gia đó trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, nếu đồng tiền nội tệ không có tính ổn định về tăng trưởng lâu dài, sẽ dẫn đến thị trường kém thu hút với các NĐT nước ngoài, làm giảm lượng ngoại tệ vào thị trường trong nước. Nguồn vốn nước ngoài có xu hướng chảy về những quốc gia có nền kinh tế phát triển và tiền tệ ít biến động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế.
Tỷ giá là yếu tố rất quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu hàng hóa đi các nước. Về phần giá cả, khi giá trị đồng nội tệ giảm, giá hàng hóa xuất khẩu sẽ rẻ hơn đối với khách hàng quốc tế, từ đó có thể tăng sức hút và nhu cầu hàng hóa, góp phần mở rộng thị phần trên thị trường. Trong trường hợp này, đồng nội tệ giảm đồng nghĩa với việc tỷ giá tăng, các doanh nghiệp bán hàng với giá ngoại tệ cố định sẽ có doanh thu quy đổi về đồng nội tệ sẽ cao hơn.
Về mặt chi phí, biến động tỷ giá cũng có thể ảnh hưởng đến chi phí nguyên liệu đầu vào nếu doanh nghiệp phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Trong trường hợp giá trị nội tệ giảm, tỷ giá tăng, chi phí thu mua nguyên liệu các doanh nghiệp sẽ lớn hơn, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp, dẫn đến tăng giá bán đến tay người tiêu dùng. Ngược lại, nếu tỷ giá giảm, các doanh nghiệp trên sẽ được hưởng lợi nhờ chi phí nguyên liệu giảm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Khi Chính phủ và các doanh nghiệp cần huy động vốn từ nước ngoài cho doạt động kinh doanh, tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến các yếu tố như chi phí lãi vay, khả năng thanh toán, hay tác động đến dòng vốn,… Khi tỷ giá của đồng tiền trong nước yếu so với đồng ngoại tệ (như USD), chi phí trả nợ bằng ngoại tệ sẽ tăng lên, qua đó làm tăng áp lực tài chính cho Chính phủ và doanh nghiệp đi vay.
Thêm vào đó, sự biện động tỷ giá cũng có thể gây ảnh hưởng đến áp lực thanh toán của bên đi vay, thậm chí có thể gây ra vỡ nợ, mất khả năng thanh toán nếu tỷ giá không được quản lý ổn định. Ngoài ra, tỷ giá một quốc gia yếu có thể làm giảm giá trị tài sản tính bằng đồng tiền trong nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính của chính phủ và doanh nghiệp, từ đó có thể làm giảm khả năng vay vốn trong tương lai.
Vì vậy, khi đưa ra quyết định vay vốn bằng ngoại tệ, các doanh nghiệp và chính phủ cần xem xét thận trọng tình hình biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá có xu hướng tăng (tức là đồng tiền trong nước giảm giá), họ có thể chọn vay bằng đồng tiền nội địa hoặc tìm kiếm các khoản vay có điều khoản linh hoạt hơn, qua đó bảo vệ tình hình nền kinh tế và doanh nghiệp khỏi những rủi ro tài chính, tránh việc tăng lãi suất cao hơn để bù đắp cho rủi ro tỷ giá, làm tăng chi phí vay.
Để duy trì tỷ giá ở mức ổn định và tăng trưởng trong mức kiểm soát, nhà nước các quốc gia sẽ có những cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau tùy vào điều kiện và đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, tỷ giá thường được điều hành bởi 3 quy chuẩn chính: Tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi và tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Tỷ giá cố định là cơ chế tỷ giá được xác định bởi Chính phủ và NHNN và duy trì ở mức cố định. Để kiểm soát được cơ chế này đòi hỏi nhà nước và Chính phủ phải can thiệp rất nhiều bằng những hành động như điều chỉnh mức lãi suất chiết khấu, mua – bán ngoại tệ, hay lập quỹ dự trữ bình ổn tỷ giá,…
Tỷ giá thả nổi là cơ chế tỷ giá mà không có sự can thiệp của chính phủ mà phụ thuộc hoàn toàn vào quy luật cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên, do không có sự kiểm soát, biên độ giao động của tỷ giá thả nổi khá mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc lập kế hoạch kinh doanh và quản lý rủi ro tài chính. Hiện tại, gần như không quốc gia nào sử dụng cơ chế này để kiểm soát thị trường ngoại hối.
Tỷ giá thả nổi có điều tiết là cơ chế tỷ giá nổi nhưng có sự can thiệp của Chính phủ và NHNN để tỷ giá được kiểm soát ở mức ổn định. Cơ chế này là sự kết hợp giữa tỷ giá thả nổi tự do và tỷ giá cố định, nhằm tránh những biến động quá mức có thể gây bất ổn cho nền kinh tế cũng như gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc lên kế hoạch kinh doanh và phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái.
Một số cơ chế hệ thống tỷ giá hối đoái khác
Sau khi Liên Xô được tách rời thành nhiều quốc gia, Nga được cho là sẽ trợ giúp các quốc gia thuộc khối Liên Xô cũ bằng cách nhập khẩu rất nhiều từ các quốc gia này. Nga cơ cấu nguồn vốn cho các khoản đầu tư này bằng các khoản vay từ các nước khác, con số nợ công tăng ngày một lớn. Tuy nhiên, tình hình giá dầu mỏ, một trong những ngạch sản phẩm chính của Nga, giảm manh, cộng với đó là Nga không có khả năng trả nợ sau khi liên tục nhập khẩu từ các nước Liên Xô cũ, khiên đồng RUB mất đi giá trị trên thị trường tiền tệ, tỷ giá ngoại tệ trong nước tăng cao.
Trước khủng hoảng, Nga sử dụng cơ chế điều hành tỷ giá cố định, duy trì ở mức 5-6 RUB/USD. Chính phủ Nga đã cố gắng bảo vệ tỷ giá này thông qua việc sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường. Đến T8/1998, Chính phủ Nga chính thức phá giá đồng RUB do không thể duy trì tỷ giá cố định với đồng USD, thả nổi tỷ giá theo diễn biến thị trường. Từ đó, hành động này dẫn đến việc tỷ giá đồng RUB rơi xuống mức 20RUB/USD, tương đương với việc giá trị đồng này giảm khoảng 70% chỉ trong vài tuần.
Việc đồng RUB mất giá đã khiến người dân dần mất tin tưởng vào thị trường nước này, dẫn đến việc rút ròng vốn khỏi nền kinh tế, chuyển dòng tiền ra nước ngoài hoặc lựa chọn đồng tiền khác để bảo vệ tài sản. Ngoài ra, đồng RUB yếu đi cũng khiến chi phí nhập khẩu tăng mạnh, hàng hóa tiêu dùng và nguyên liệu nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, gây ra sự sụp đổ của hàng loạt doanh nghiệp và đưa nền kinh tế Nga rơi vào suy thoái nghiêm trọng.
Nhưng đến giai đoạn 1999 – 2000, nhờ việc giá dầu tăng mạnh trên thị trường quốc tế đã giúp cho Nga tăng cường nguồn thu ngoại tệ và hỗ trợ đồng RUB phục hồi trở lại. Chính phủ Nga thực hiện các biện pháp ổn định đồng Ruble thông qua tăng cường dự trữ ngoại hối và áp dụng chính sách tài khóa chặt chẽ hơn.
Từ thời điểm đầu những năm 1990, Argentina đã áp dụng chính sách neo tỷ giá cố định, trong đó đồng Peso (ARS) được neo với đồng USD theo tỷ lệ 1:1. Tuy nhiên, chính sách này khiến Argentina gặp khó khăn trong việc điều chỉnh tỷ giá để phù hợp với tình hình kinh tế. Khi đồng USD mạnh lên trong những năm 1990, đồng Peso cũng bị kéo theo, khiến hàng xuất khẩu của Argentina trở nên đắt đỏ và kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn đó như châu Á (1997) hay Nga (1998) đã khiến sức mua trên thị trường quốc tế giảm mạnh.
Từ đó, tình hình kinh tế Argentina rơi vào tình trạng báo động, ngân hàng trung ương Argentina dần cạn kiệt dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định. Tình trạng thoái vốn diễn ra, người dân liên tục chuyển từ đồng Peso sang USD và chuyển ra nước ngoài khiến các Ngân hàng cạn dần ngoại tệ. Chính phủ đã áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn nghiêm ngặt, bao gồm Corralito – một chính sách giới hạn người dân rút tiền từ các tài khoản ngân hàng, tuy nhiên biện pháp này đã gây ra xung đột dẫn đến nhiều cuộc xung đột và biểu tình diễn ra.
Đến năm 2001, chính phủ Argentina chính thức tuyên bố vỡ nợ với khoản nợ lên tới 93 tỷ USD, con số cao nhất trong lịch sử tài chính thế giới lúc đó. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã buộc phải từ bỏ chính sách tỷ giá cố định với USD vào đầu năm 2002, phá giá đồng Peso. Đồng Peso mất giá nhanh chóng, giảm khoảng 70% giá trị so với USD trong thời gian ngắn. GDP giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao lên mức 20 – 25% vào năm 2002, lạm phát tăng cao cùng với bất ổn chính trị đã gây ra bất ổn xã hội lớn.
Sau khi từ bỏ tỷ giá cố định và phá giá đồng Peso, Argentina dần dần áp dụng các biện pháp kinh tế mới để phục hồi. Chính phủ tập trung vào việc tái cấu trúc nợ, cải cách tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nội địa. Nhờ sự hỗ trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và việc tái cấu trúc nợ công, Argentina bắt đầu phục hồi kinh tế từ năm 2003. Tăng trưởng GDP trở lại và lạm phát được kiểm soát ở mức tương đối ổn định.
Từ năm 2011, Chính phủ Thụy Sĩ đã ban hành chính sách neo tỷ giá của CHF ở mức tối thiểu 1,20 CHF/EUR nhằm ngăn chặn sự tăng giá quá mạnh từ đồng CHF, bảo vệ ngành du lịch và xuất khẩu của quốc gia này. Nhưng đến T1/2015, Chính phủ Thụy Sĩ bất ngờ tuyên bố chấm dứt chính sách neo giá này mà không có bất kỳ cảnh báo nào trước đó. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh áp lực ngày càng tăng từ sự suy yếu của đồng Euro, đặc biệt khi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang chuẩn bị tung ra gói kích thích kinh tế (nới lỏng định lượng - QE), dự kiến làm suy yếu thêm đồng Euro.
Động thái này đã khiến thị trường tài chính toàn cầu có một phiên biến động mạnh. Đồng CHF tăng mạnh hơn 28% so với đồng Euro, trong khi Euro giảm 30% xuống thấp kỷ lục 0,8500 CHF/Euro. Lãnh đạo SNB cho biết việc neo tỷ giá trong bối cảnh khi đó là "không cần thiết". Điều này được hiểu rằng do đồng Euro liên tục giảm giá so với các ngoại tệ khác, thì việc neo đồng CHF vào Euro không mang lại lợi ích cho quốc gia này.
Ngay sau khi SNB thông báo hủy bỏ neo tỷ giá, CHF tăng hơn 20% so với đồng Euro trong vài phút sau thông báo, từ mức khoảng 1,20 CHF/Euro lên gần 0,85 CHF/Euro. So với đồng USD, trong thời gian ngắn, tỷ giá tăng từ khoảng 1,02 CHF/USD lên 0,88 CHF/USD. Sự tăng trưởng vượt mức này khiến nhiều NĐT vay nợ bằng đồng CHF chịu tổn thất lớn, ví dụ điển hình như công ty môi giới ngoại hối lớn Alpari UK (Anh) tuyên bố phá sản ngay sau sự kiện này, do không thể chịu đựng được khoản lỗ lớn từ việc CHF tăng giá mạnh.
Ngành du lịch và xuất khẩu chịu tác động mạnh khi đồng nội tệ tăng khiến hàng hóa và dịch vụ của Thụy Sĩ trở nên đắt đỏ hơn, trở nên kém cạnh tranh trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp trong nước cũng ảnh hưởng không nhỏ khi nhiều công ty phải đối mặt với việc cắt giảm dự báo lợi nhuận. Doanh nghiệp các quốc gia ngoài Thụy Sĩ như Ba Lan, Croatia hay Hungary trong nguy cơ rơi vào khủng hoảng khi họ vay tiền bằng CHF (do lãi suất thấp hơn so với đồng nội tệ), nên khi đồng tiền này tăng mạnh, các khoản vay đó cũng trở nên đắt đỏ hơn.
Để giảm bớt tác động tiêu cực từ việc đồng CHF tăng giá, SNB đã áp dụng lãi suất âm ở mức -0,75% trên tiền gửi tại ngân hàng trung ương. Đây là một trong những biện pháp tiền tệ nhằm làm yếu đồng Franc, khuyến khích dòng tiền đầu tư và khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nội địa.
Trước giai đoạn đổi mới và cải cách kinh tế 1986, tỷ giá hối đoái tại Việt Nam được điều hành bởi hệ thống tỷ giá cố định. Tuy nhiên, biện pháp này đã gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế khi mức tỷ giá niêm yết và tỷ giá thực theo cung – cầu thị trường có khoảng cách quá lớn, cho thấy nội tại nền kinh tế đang gặp nhiều vấn đề như lạm phát cao hay thâm hụt kinh tế.
Sau khi chuyển sang thể chế kinh tế thị trường năm 1986, cơ chế tỷ giá bắt đầu được điều chỉnh linh hoạt hơn. Và đặc biệt vào năm 1989, Chính phủ đã chấp nhận phá giá đồng VND để hợp nhất giữa tỷ giá thị trường chính thức và tỷ giá chợ đen, qua đó giảm áp lực lạm phát, thúc đẩy xuất khẩu và kích thích nền kinh tế.
Đến năm 1991, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam bắt đầu áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt có kiểm soát, trong đó tỷ giá VND so với USD được điều chỉnh theo cung cầu ngoại tệ trên thị trường, nhưng vẫn trong khuôn khổ quản lý của nhà nước. Tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày và các ngân hàng thương mại được phép giao dịch trong biên độ nhất định so với tỷ giá này. Biên độ tỷ giá thường xuyên được điều chỉnh để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Bước sang thế kỷ mới, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thế giới khi lần lượt gia nhập những tổ chức kinh tế như ASEAN hay WTO, do đó cơ chế quản lý tỷ giá cũng cần có sự linh hoạt hơn để thích ứng với những biến động quốc tế. Trong khoảng thời gian từ 2001 – 2007, Chính phủ Việt Nam cung với NHNN linh động áp dụng Cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh đối với tỷ giá hối đoái, vừa giúp kiểm soát tỷ giá, vừa để tỷ giá phản ánh đúng giá trị thực trên thị trường.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã khiến nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề với thâm hụt thương mại, thâm hụt cán cân thanh toán, và tình trạng lạm phát. NHNN đã phải phá giáVND nhiều lần để hỗ trợ xuất khẩu và giảm thâm hụt. Đến cuối giai đoạn này, NHNN bắt đầu tăng cường sử dụng các công cụ thị trường tiền tệ để can thiệp vào tỷ giá, đặc biệt là dự trữ ngoại hối, giúp giữ ổn định thị trường và củng cố lòng tin của nhà đầu tư.
Năm 2016, NHNN chính thức chuyển sang cơ chế tỷ giá trung tâm. Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh hàng ngày dựa trên rổ các đồng tiền chủ chốt của các đối tác thương mại lớn như USD, EUR, JPY, CNY và cung cầu ngoại tệ trong nước. Các ngân hàng thương mại được phép giao dịch trong biên độ ±3% so với tỷ giá trung tâm. Cơ chế này giúp cho nhà nước quản lý thị trường ngoại hối chặt chẽ hơn thông qua việc can thiệp dự trữ ngoại hối, kiểm soát vốn và giám sát chặt các dòng tiền ra vào, ngoài ra là một bước cải tiến giúp tỷ giá phản ứng nhanh hơn với biến động trên thị trường quốc tế và trong nước.
Trong giai đoạn này, đại dịch Covid-19 (2019 – 2021) đã khiến cho nền kinh tế thế giới rơi vào trì trệ và suy thoái nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhờ vào việc dự trữ ngoại hối của Việt Nam gia tăng đáng kể và các biện pháp quản lý thị trường hiệu quả, NHNN vẫn duy trì được sự ổn định của tỷ giá. Đến năm 2022, để kiềm chế đà tăng lạm phát thời hậu Covid-19, Fed chuyển sang thu hẹp dần quy mô mua tài sản và tăng mạnh lãi suất liên tục, gây sức ép lên tỷ giá và đồng ngoại tệ các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Mặc dù theo nghị định số 70/2014/NĐ-CP, công bố rõ về cơ chế quan lý tỷ giá ở Việt Nam là “chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý do NHNN xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ”, nhưng đến 2022, NHNN đã ban hành chính sách tỷ giá đối với đồng USD khi không được vượt quá biên độ ±5% so với tỷ giá trung tâm do NHNN Việt Nam công bố áp dụng cho ngày giao dịch đó.
Mặc dù cách đầu tư này thường hiếm và khó có thể sử dụng trên thực tế, tuy nhiên trên lý thuyết việc đầu cơ chênh lệch giá hoàn toàn có thể xảy ra. Khi các cặp tỷ giá của hai đến ba đồng tiền có giá trị khác nhau trên các sàn khác nhau, NĐT có thể tạo ra lợi nhuận từ sự chênh lệch này. Ví dụ: Trên sàn A, tỷ giá VND/USD có mức giá 24,000, trong khi đó trên sàn B, tỷ giá VND/USD có mức giá 25,000, NĐT có thể dùng 24,000VND để mua 1USD ở sàn A, sau đó bán lại 1USD đó ở sàn B để thu về 25,000VND. Từ đó, NĐT có thể thu về 1,000VNĐ lợi nhuận từ khoản đầu tư này.
Giao dịch chênh lệch lãi suất là chiến lược đầu tư tạo ra lợi nhuận nhờ sự chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau. Nhà đầu tư sẽ vay tiền từ một quốc gia có lãi suất thấp và đầu tư vào một quốc gia có lãi suất cao hơn. Tuy nhiên, cách đàu tư này có rủi ro khá lớn về tỷ giá giữa các đồng tiền, khi tỷ giá của đồng tiền mà nhà đầu tư vay tăng lên so với đồng tiền mà họ đầu tư, lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất có thể bị giảm hoặc thậm chí dẫn đến thua lỗ. Một ví dụ về giao dịch chênh lệch lãi suất: Giả sử lãi suất ở Nhật Bản là 0,1% và lãi suất ở Úc là 2%. Nhà đầu tư vay JPY (với lãi suất thấp) và đổi sang AUD để đầu tư vào trái phiếu Úc, hưởng lãi suất 2%. Sự khác biệt lãi suất 1,9% là lợi nhuận của NĐT.
Ngoài việc sử dụng tỷ giá làm công cụ hỗ trợ đầu tư, NĐT có thể cân nhắc đến việc đầu tư vào các giao dịch ngoại hối. Trong thị trường Forex, nhà đầu tư mua một loại tiền tệ và bán một loại tiền tệ khác, tức là giao dịch theo cặp tiền tệ. Tỷ giá hối đoái biểu thị giá trị của một đồng tiền so với một đồng tiền khác.
Nhà đầu tư ngoại hối thường áp dụng các chiến lược dựa trên sự biến động của tỷ giá hối đoái, từ đó xác định xu hướng của tỷ giá để đưa ra quyết định đầu tư kiếm lợi nhuận. Ngoài ra tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế cơ bản như lạm phát, lãi suất, tăng trưởng GDP, và chính sách tiền tệ. Vì vậy, NĐT giao dịch ngoại hối cũng sử dụng các yếu tố này để dự đoán biến động của tỷ giá.
Áp dụng tỷ giá hối đoái để đa dạng hóa danh mục đầu tư là một chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa lợi nhuận khi đầu tư vào nhiều loại tài sản từ các quốc gia khác nhau. NĐT có thể lựa chọn các sản phẩm tài chính quốc tế để phân bổ dòng tiền, ví dụ như đầu tư vào thị trường ngoại hối, chứng khoán, bất động sản nước ngoài hay trái phiếu chính phủ các nước,… Từ đó, các kênh đầu tư có thể vừa đem lại lợi nhuận cho NĐT một cách đa dạng, thậm chí sẽ gia tăng lợi nhuận khi giá trị đồng tiền quốc gia đầu tư tăng lên. Ngoài ra, đây cũng là một phương pháp giảm trừ rủi ro tỷ giá cho các khoản đầu tư.
Khi các NĐT tham gia các thị trường quốc tế đều sẽ bị ảnh hưởng bởi các rủi ro tỷ giá khi giá trị các đồng tiền có biến động. Để phòng ngừa những rủi ro này, NĐT có thể lựa chọn những sản phẩm phái sinh như hợp đồng kỳ hạn ngoại hối (Forward contract), quyền chọn ngoại hối (Option contract), hay giao dịch ngoại hối tương lai (Futures Contract),… để bảo vệ các khoản đầu tư.
Các sản phẩm này giúp NĐT yên tâm hơn về tỷ giá ngoại tệ bằng cách khóa các loại tỷ giá ở thời điểm hiện tại, qua đó bảo vệ giá trị dòng tiền cho NĐT. Ví dụ về phòng ngửa rủi ro tỷ giá: Một doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ và nhận thanh toán bằng USD sau một khaongr thời gian nhất định có thể ký hợp đồng kỳ hạn để bán USD tại tỷ giá hiện tại nhằm tránh rủi ro USD giảm giá so với VND trong tương lai.
Thị trường Việt Nam vào cuối năm 2023 đã phải đối mặt với tình trạng biến động mạnh của tỷ giá VND/USD, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Tỷ giá VND/USD biến động mạnh tạo ra tâm lý lo ngại về rủi ro tỷ giá cho nhiều nhà đầu tư quốc tế và trong nước.
Vào năm 2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã liên tục tăng lãi suất trong cả năm từ mức 0.25% vào đầu năm lên mức 4.5% và tiếp tục tăng sau đó, để kiểm soát lạm phát trong nước, dẫn tới đồng USD có xu hướng tăng mạnh mẽ. Điều này làm cho các nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam gặp khó khăn trong việc duy trì sự ổn định của tỷ giá ngoại hối, khi đến cuối năm 2022, VND đã mất giá so với USD khoảng 9.7% tính từ đầu năm.
Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian này, nhu cầu ngoại tệ tại Việt Nam tăng mạnh để thanh toán các khoản nợ nước ngoài và phục vụ cho hoạt động nhập khẩu. Trong khi đó, dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã bị giảm sút khi họ can thiệp vào thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá. Tình hình kinh tế toàn cấu suy giảm đặc biệt ở các nền kinh tế lớn cũng ảnh hưởng đến diễn biến tỷ giá của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Khi tỷ giá VND/USD biến động mạnh, tâm lý lo ngại về rủi ro tỷ giá khiến nhiều nhà đầu tư quốc tế và trong nước tìm cách rút vốn khỏi thị trường chứng khoán. Điều này dẫn đến sự bán tháo cổ phiếu, đặc biệt là các nhóm ngành liên quan đến xuất nhập khẩu, gây ra biến động mạnh trên thị trường. do lo ngại sự mất giá của VND làm giảm lợi nhuận đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng chuyển tài sản sang các kênh an toàn hơn.
Tỷ giá VND/USD tăng đột biến cũng khiến các doanh nghiệp có khoản vay ngoại tệ lớn chịu áp lực từ chi phí trả nợ tăng lên khi tỷ giá VND/USD tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh. Thêm vào đó, các công ty nhập khẩu lớn hoặc những công ty phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu phải đối mặt với chi phí đầu vào cao hơn. Các ngân hàng, đặc biệt những ngân hàng có nhiều khoản vay ngoại tệ hoặc giao dịch liên quan đến USD cũng đã bị ảnh hưởng bởi tỷ giá biến động, tạo ra xu hướng suy giảm chất lượng tài sản và lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết.
Khi tỷ giá mất ổn định, NHNN phải tăng lãi suất điều hành để giữ tỷ giá không mất giá quá nhanh, từ đó gây ra áp lực lên chi phí vốn cho các doanh nghiệp niêm yết. Điều này có thể làm giảm động lực đầu tư và chi tiêu, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp. Hệ quả trực tiếp dẫn tới pha sụt giảm nhanh chóng của thị trường chứng khoán từ đầu T4/2022. Trong khoảng thời gian này, vào đầu T6, VN-index đạt đỉnh ở mức 1526 điểm đã nhanh chóng sụt giảm về mức 875 điểm chỉ trong vòng hơn 7 tháng (-42.6%). Cũng trong năm này, tỷ giá VND/USD cũng nhanh chóng tăng gần 10%, lên mức cao nhất đạt 24,870VND/USD.
Biến động tỷ giá trong năm 2022 đã tạo ra những tác động đáng kể lên thị trường chứng khoán Việt Nam khi nền kinh tế trong nước chưa có sự chuẩn bị kỹ càng cho rủi ro tỷ giá này. Các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự biến động này, đặc biệt là những doanh nghiệp có khoản vay ngoại tệ hoặc phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu. Nhà đầu tư cũng tỏ ra thận trọng hơn, dẫn đến xu hướng bán tháo và giảm thanh khoản trên thị trường.
Từ đây, ta có thể rút ra được một số bài học về rủi ro tỷ giá cho NĐT tham gia TTCK:
Một trong những ví dụ điển hình trong việc ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến giá trị CP của một doanh nghiệp, ta có thể kể đến như tình hinh kinh doanh của Toyota Motor Corporation (Nhật Bản) trong biến động tỷ giá JPY/USD giai đoạn 2014 – 2016.
Toyota là một trong những nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới, với phần lớn doanh thu đến từ thị trường quốc tế, đặc biệt là từ Mỹ. Do đó, bất kỳ sự thay đổi nào trong tỷ giá USD/JPY đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của Toyota trên thị trường toàn cầu, đặc biệt là tại Mỹ, nơi doanh thu của công ty được quy đổi sang JPY.
Ngân hàng TW Nhật Bản (BOJ) khi đó đã áp dụng những chính sách nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ, với mong muốn làm suy yếu đồng JPY để kích thích sản phẩm xuất khẩu. Ngược lại, tại thị trường Mỹ, do ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ công châu Âu, FED áp dụng chính sách tiền tệ làm tăng giá trị USD, với việc dần dần tăng lãi suất và thắt chặt các chính sách tài chính, tài khóa.
Từ đầu Q3/2014 đến hết Q4/2014, tỷ giá JPY/USD có biến động mạnh với xu hướng giảm, khi chính sách tiền tệ 2 nước Mỹ và Nhật đi ngược chiều. Từ đỉnh 0.01JPY/USD, sau 6 tháng mức tỷ giá này đã rơi xuống mức đáy là 0.008JPY/USD (~ -20%). Điều này xảy ra ảnh hưởng vô cùng có lợi cho Toyota, khi tập đoàn từ lợi thế xuất khẩu, với doanh thu từ thị trường Mỹ và các khu vực quốc tế khác tăng lên khi quy đổi sang JPY. Năm tài chính 2014 và 2015 đều chứng kiến mức lợi nhuận cao kỷ lục của Toyota, một phần nhờ vào xu hướng giảm mạnh mẽ của tỷ giá JPY/USD.
Điều này đã hỗ trợ cho giá cổ phiếu Toyota tăng trưởng trong thời kỳ này. Khi chỉ trong nửa cuối Q4/2014 cho đến nửa đầu Q2/2015, giá CP của tập đoàn này (NYSE: TOYOF) tăng gần 38%, từ giá 53USD/CP (T10/2014) lên đến 73USD/CP (T4/2015). Xu hướng tăng của giá CP cũng hạ nhiệt khi xu hướng tỷ giá JPY/USD dần có xu hướng đi ngang vào cuối 2015 và tăng trở lại 2016. Khi JPY mạnh lên vào năm 2016, Toyota phải đối mặt với áp lực giảm lợi nhuận và giá cổ phiếu cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực.
Từ 2014-2016, biến động tỷ giá USD/JPY có tác động mạnh đến cổ phiếu của Toyota. Khi USD tăng giá so với JPY (JPY yếu), Toyota hưởng lợi nhờ doanh thu xuất khẩu từ Mỹ tăng lên, đẩy giá cổ phiếu tăng. Ngược lại, khi JPY mạnh lên năm 2016, lợi nhuận giảm do sản phẩm Toyota trở nên đắt đỏ hơn ở thị trường Mỹ, gây áp lực lên cổ phiếu.
Từ sự kiện trên ta có thể rút ra các bài học về tầm quan trọng của biến động tỷ giá trong hoạt động đầu tư và kinh doanh: