Đọc thêm
Lãi suất là gì? Phân loại, tác động và ứng dụng trong đầu tư
Mục lục
Lãi và lãi suất là hai khái niệm cơ bản nhưng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hình nền kinh tế và các quyết định tài chính của cá nhân, doanh nghiệp. Mặc dù thường được nhắc đến cùng nhau, lãi là khoản thu nhập thêm cho bên bán hoặc sản xuất, trong khi lãi suất là "giá" của việc sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định.
Vậy, làm thế nào để phân biệt rõ ràng hai khái niệm này và tại sao chúng lại là các chỉ tiêu kinh tế chính không thể thiếu?
Bài viết hôm nay của DSC Tài Chính Số sẽ đi sâu phân tích định nghĩa, các loại lãi suất dựa trên tính chất khoản vay, tính linh hoạt và cách tính. Đồng thời, chúng ta sẽ khám phá những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến lãi suất, tác động đa chiều của nó đối với lạm phát, tỷ giá hối đoái, thị trường việc làm, đầu tư sản xuất kinh doanh và thị trường chứng khoán.
Bài viết cũng sẽ làm rõ cách Ngân hàng Trung ương điều hành lãi suất, nhìn lại lịch sử biến động lãi suất tại Việt Nam qua các chu kỳ kinh tế, và phân tích một case study điển hình về mối quan hệ giữa lãi suất và thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn Đại dịch Covid-19, giúp bạn có cái nhìn toàn diện về tầm quan trọng của lãi suất trong bức tranh kinh tế vĩ mô.
Lãi và lãi suất khác nhau thế nào?
Lãi là gì?
Khi tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng phải chi trả giá thành sản phẩm cho những tiêu thụ đó. Giá thành trong đó đã bao gồm chi phí sản xuất, sức lao động liên quan và LÃI. Vậy ta có thể hiểu lãi là phần giá trị lớn hơn, hay là khoản thu nhập cho bên bán hay bên sản xuất.
Lãi suất là gi?
Lãi suất là giá cả cho quyền sử dụng lượng vốn trong một khoảng thời gian nhất định (thường theo tháng hoặc năm), hay có thể hiểu là phần trăm lượng vốn gốc mà bên vay sẽ nhận được sau khi cho bên đi vay mượn sau một khoảng thời gian. Lãi suất được hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng chứ không phải trên cơ sở giá trị.
Phân loại lãi suất
Định nghĩa lãi suất được sử dụng trong rất nhiều trường hợp cũng như các ngạch khác nhau trên thị trường kinh doanh và tài chính, do đó, lãi suất sẽ được phân loại dựa vào tính chất khoản vay, tính linh hoạt của lãi suất, giá trị thực của tiền lãi và cách tính lãi suất.
Dựa trên giá trị thực của tiền lãi
- Lãi suất danh nghĩa:
Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất công bố chính thức mà bạn nhận được hoặc phải trả, chưa tính đến tác động của lạm phát. Ngoài ra, lãi suất danh nghĩa còn biểu thị cho sự tăng trưởng của tiền tệ sau một thời gian nhất định, thường là sau một năm.
- Lãi suất thực:
Lãi suất thực là mức lãi suất sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát. Lãi suất thực là cơ sở để đánh giá giá trị thực của khoản vay hoặc tiền gửi.
Dựa trên tính chất khoản vay
Trong nền kinh tế của một quốc gia, việc bình ổn tỷ giá, giữ giá trị đồng nội tệ là vô cùng quan trọng để ổn định, bảo vệ cũng như phát triển nền kinh tế bền vững. Do đó, Chính phủ và NHNN luôn chú tâm theo dõi tình hình nền kinh tế, từ đó sử dụng những công cụ tài chính để điều chỉnh cũng như đảm bảo phát triền bền vững. Trong đó, lãi suất điều hành là một trong những công cụ quan trọng nhất được NHNN dùng để điều hành chính sách tiền tệ, điều tiết lượng tiền lưu thông nhằm thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.
Lãi suất điều hành có thể coi là lãi suất cốt lõi do ngân hàng trung ương quy định, tác động đến toàn bộ hệ thống tài chính và kinh tế. Lãi suất điều hành thường được dùng để định hướng các lãi suất khác trên thị trường, NHNN sẽ tùy vào tình hình từng giai đoạn để đưa ra quyết định tăng hay giảm lãi suất, từ đó kiểm soát lượng cung cầu đồng nội tệ. Lãi suất này cũng tác động trực tiếp đến giá trị đồng tiền, biến động tỷ giá ngoại hối, dòng tiền trên thị trường cũng như giá Cổ phiếu trên TTCK. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, Ngân hàng Nhà nước sẽ lựa chọn và điều chỉnh các loại lãi suất điều hành để phù hợp với mục tiêu vĩ mô.
Tại Việt Nam hiện tại đang sử dụng một số loại lãi suất điều hành chính:
- Lãi suất cho vay thị trường mở (OMO)
Lãi suất OMO là lãi suất mà NHNN sử dụng khi thực hiện các giao dịch mua hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn với các ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng. Thông qua việc mua các loại giấy tờ có giá (trái phiếu, tín phiếu,..), NHNN cung cấp tiền cho các ngân hàng, cung cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng và ngược lại, khi bán ra các loại giấy tờ đó, NHNN hút tiền về, thu hẹp thanh khoản hệ thống nhằm kiểm soát lạm phát. Trong trường hợp thanh khoản hệ thống thiếu vốn, NHNN sẽ chào mua tin phiếu repo (Repurchase Agreement: Bán một tài sản cho người mua và cam kết sẽ mua lại với giá cao hơn) nhằm mục đích bơm thanhkhoản ngắn hạn cho hệ thống ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà Ngân hàng Trung ương áp dụng khi cho các ngân hàng thương mại vay thông qua nghiệp vụ mua các giấy tờ như trái phiếu hay tín phiếu ngắn hạn trước khi đến ngày thanh toán, nhằm mục đích cung cấp thanh khoản khẩn cấp cho các ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng.
- Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHNN áp dụng khi tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn từ các ngân hàng thương mại, cho phép các ngân hàng này sử dụng các giấy tờ có giá đã chiết khấu làm tài sản thế chấp để vay vốn từ NHNN. Lãi suất này được áp dụng khi NHNN cung cấp thanh khoản ngắn hạn cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong trường hợp cần hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp.
- Lãi suất tái cấp vốn
Khi Ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng cạn kiệt dự trữ tiền và cả các giấy tờ có giá, họ sẽ sử dụng dụng nghiệp vụ tái cấp vốn để điều tiết thanh khoản và bổ sung vốn ngắn hạn. Đây có thể được coi là lãi suất phạt của NHNN dành cho ngân hàng thương mại khi để xảy ra tình trạng cạn kiệt dự trữ, khi là loại lãi suất cao nhất trong các loại lãi suất điều hành của NHNN (SBV).
Một số loại lãi suất khác dựa trên tính chất khoản vay
- Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất mà NHNN công bố, làm cơ sở tham chiếu cho các ngân hàng thương mại trong việc xác định lãi suất cho vay và huy động vốn. Lãi suất cơ bản giúp kiểm soát lạm phát, điều tiết cung tiền, và ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế vĩ mô.
- Lãi suất gửi ngân hàng
Lãi suất gửi ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng thương mại trả cho khách hàng khi họ gửi tiền vào các tài khoản, bao gồm tiền tiết kiệm (có kỳ hạn/không kỳ hạn,..), tiền gửi thanh toán. Mức lãi suất này phụ thuộc vào kỳ hạn và chính sách của ngân hàng, thường được dùng để thu hút nguồn vốn từ người dân.
- Lãi suất tín dụng
Lãi suất tín dụng là lãi suất mà các ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng áp dụng cho các khoản vay mà khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp) vay từ họ. Mức lãi suất này phụ thuộc vào loại khoản vay (tín chấp, thế chấp), kỳ hạn vay, và mức độ rủi ro của khách hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng:
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng thương mại áp dụng khi vay mượn lẫn nhau trong ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng (InterBank Market*), với mục đích điều chỉnh thanh khoản tức thời, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. Lãi suất này thường biến động dựa trên cung cầu tiền tệ trong hệ thống ngân hàng.
Dựa trên tính linh hoạt
- Lãi suất cố định:
Lãi suất cố định là lãi suất được ấn định tại thời điểm bắt đầu khoản vay và không thay đổi trong suốt thời gian vay, bất kể biến động trên thị trường. Loại lãi suất này có tính ổn định, giúp người vay quản lý ngân sách và ổn định chi phí trong thời gian vay, tuy nhiên lại không được hưởng lợi khi lãi suất thị trường giảm.
- Lãi suất thả nổi:
Lãi suất thả nổi (hay lãi suất biến động) là lãi suất có thể thay đổi trong thời gian vay, dựa trên các yếu tố thị trường như lãi suất cơ bản do NHNN công bố, hay sự biến động của các chỉ số kinh tế. Sử dụng lãi suất thả nổi mang lại rủi ro cho người đi vay trong trường hợp lãi suất thị trường tăng. Tuy nhiên, trong chiều ngược lại, người đi vay có thể hưởng lợi lãi suất giảm.
Dựa trên cách tính lãi suất
- Lãi suất đơn:
Lãi suất đơn là lãi suất chỉ được tính trên số tiền gốc ban đầu trong suốt thời gian vay hoặc đầu tư, không tính thêm trên phần lãi đã tích lũy. Ví dụ thực tế khi gửi tiết kiệm 100 triệu đồng với lãi suất đơn 5%/năm trong 3 năm, số tiền nhận được đến kì hạn được tính như sau:
A = 100,000,000 x (1 + 0.05 x 3) = 115,000,000
- Lãi suất kép:
Lãi suất kép là lãi suất không chỉ tính trên số tiền gốc ban đầu, mà còn tính trên cả số tiền lãi đã tích lũy qua các chu kỳ trước đó, hay có thể hiểu đơn giản là "lãi mẹ đẻ lãi con". Tương tự như ví dụ trên nhưng sử dụng lãi suất kép, số tiền nhận được đến kì hạn được tính như sau:
A = 100,000,000 x (1 + 0.05/1)1 x 3 = 100,000,000 x (1.05)3 = 115,762,500
Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất
Chính sách điều hành
Chính sách điều hành của NHNN có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lãi suất và tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ và NHNN sẽ thông qua việc theo dõi những biến động tình hình kinh tế trong nước, từ đó đưa ra những chính sách tiền tệ hay tài khóa phù hợp để kiểm soát tình hình, ổn định lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng.
Khi thị trường kinh tế chung phát triển ở mức độ quá cao, NHNN sẽ thực hiện đẩy mức lãi suất điều hành lên, từ đó nguồn vốn chảy vào thị trường sẽ giảm do lúc này chi phí vốn leo thang. Dòng tiền được thắt chặt đồng nghĩa với việc sức mua suy giảm, qua đó nền kinh tế hạ nhiệt do nhu cầu nguồn cung giảm. Nhưng theo hướng ngược lại, khi thị trường cần động lực để thúc đẩy tăng trưởng, NHNN lúc này sẽ đưa ra quyết định đưa ra chính sách tiền tệ mở rộng qua việc giảm lãi suất điều hành. Nhờ lãi suất thấp, chi phí vay vốn cũng giảm, nhờ đó khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân vay mượn để đầu tư và tiêu dùng, từ đó kích thích hoạt động kinh tế.
Ngoài việc trực tiếp tác động đến lãi suất, Chính phủ và NHNN vẫn có thể đưa ra những quyết định ảnh hưởng tới lãi suất thông qua công cụ thị trường mở, quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách tài khóa hay giới hạn Room tín dụng. Để điều chỉnh lượng cung cầu tiền tệ trên thị trường, NHTW sẽ có thể thực hiện việc mua trái phiếu chính phủ, qua đó bơm tiền vào hệ thống ngân hàng giúp tăng nguồn cung, giảm lãi suất, hay ngược lại rút dòng tiền ra bằng việc bán ra, từ đó lãi suất sẽ tăng.
Ngoài ra, những quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tác động trực tiếp đến lượng vốn mà các ngân hàng có thể cho vay, khi tỷ lệ giảm, lượng tiền có thể cho vay lớn khiến lãi suất giảm và ngược lại. Thêm vào đó, Chính phủ và NHNN cũng có thể quản lý lượng cho vay của các ngân hàng thông qua Room tín dụng. Room tín dụng là giới hạn mà NHTW đặt ra cho mỗi ngân hàng về mức tín dụng tối đa có thể cấp phát trong một năm. Khi NHTW siết chặt room tín dụng, các ngân hàng sẽ hạn chế việc cho vay, từ đó làm tăng lãi suất do nguồn cung tín dụng bị thu hẹp. Ngược lại, khi NHTW nới lỏng room tín dụng, các ngân hàng có thể cho vay nhiều hơn, làm tăng cung tiền và giúp hạ lãi suất.
Cung và cầu tín dụng
Cung và cầu tín dụng là hai yếu tố cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp đến mức lãi suất trên thị trường. Sự tương tác giữa cung tín dụng (số lượng vốn sẵn có để cho vay) và cầu tín dụng (nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và cá nhân) quyết định mức lãi suất trong nền kinh tế.
Cung tín dụng tăng khi ngân hàng huy động được lượng lớn vốn từ tiền gửi hay tiền vay từ NHTW,… để cho vay, lúc này để cạnh tranh và thu hút khách hàng vay tiền, ngân hang sẽ hạ lãi suất, từ đó giảm chi phí cho vay. Ngược lại, khi dòng vốn tín dụng bị thu hẹp, lượng tiền cho vay không còn dư dả, các ngân hàng sẽ tăng lãi suất để giảm nhu cầu vay vốn và cân đối với lượng vốn có hạn.
Lạm phát
Tỷ lệ tăng trưởng lạm phát và lạm phát kỳ vọng có mối liên kế chặt chẽ với lãi suất điều hành. Lạm phát làm giảm giá trị của tiền theo thời gian, vì vậy các ngân hàng thường tăng lãi suất để bù đắp cho sự mất giá của đồng tiền. Do lãi suất thực được tính bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát, vì vậy khi lạm phát cao, lãi suất danh nghĩa cần phải tăng để duy trì lãi suất thực dương. Thêm vào đó, tăng trưởng lạm phát kỳ vọng cũng là một trong những yếu tố quyết định lãi suất tăng hay giảm. Nếu các nhà đầu tư và ngân hàng dự đoán rằng lạm phát sẽ tăng trong tương lai, họ có thể tăng lãi suất hiện tại để bảo vệ giá trị tài sản và lợi nhuận của họ.
Chính trị
Sự ổn định chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường một quốc gia. Khi quốc gia đối diện với bất ổn chính trị (như thay đổi chính phủ, xung đột, bạo động), niềm tin của nhà đầu tư suy giảm, tạo áp lực tăng lãi suất do rủi ro cao hơn. Nhà đầu tư yêu cầu lợi tức cao hơn để bù đắp cho rủi ro gia tăng này.
Rủi ro chính trị: Ở các quốc gia có môi trường chính trị không ổn định, nhà đầu tư thường yêu cầu lãi suất cao hơn để đảm bảo họ được bù đắp cho rủi ro tài chính, chẳng hạn như lạm phát không kiểm soát được, khủng hoảng tài chính hoặc thậm chí sự mất giá của đồng tiền.
Nền kinh tế quốc gia
Sự tăng trưởng của nền kinh tế có tác động trực tiếp đến biến động lãi suất của một quốc gia. Với trường hợp nền kinh tế tăng trưởng mạnh, Chính phủ và NHNN thường sẽ tăng mức lãi suất điều hành, nhằm ngăn chặn nền kinh tế quá nóng, dẫn đến tình trạng lạm phát không thể kiểm soát. Ngoài ra, khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu về vốn cũng sẽ lớn hơn dẫn đến việc các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lãi suất cho vay. Trong chiều hướng ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm hoặc diễn ra suy thoái kinh tế, NHNN sẽ có cơ chế giảm lãi suất để kích thích hoạt động kinh tế, thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư.
Lãi suất tác động thế nào đến nền kinh tế?
Lạm phát và tỷ giá ngoại hối
Giữa lãi suất và lạm phát, mối quan hệ của mức tăng trưởng giữa 2 chỉ số thường sẽ nghịch chiều, khi lãi suất là công cụ tài chính để điều chỉnh lạm phát, bình ổn nền kinh tế một quốc gia. Khi thị trường bùng nổ với mức tăng trưởng không kiểm soát, Chính phủ và NHNN sẽ thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất để hạ nhiệt nền kinh tế. Lãi suất tăng sẽ tác động trực tiếp đến cung cầu tiền mặt trên thị trường, chi phí vay gia tăng dẫn đến giảm nhu cầu vay vốn. Ngoài ra, lúc này người dân sẽ có xu hướng gửi tiết kiệm trong ngân hàng để lấy lãi, do đó nhu cầu tiêu dùng cũng giảm xuống. Nguồn vốn được co hẹp cùng với giảm sức mua sẽ làm giảm lượng tiền lưu thông trên thị trường, ảnh hưởng tích cực đến giá trị đồng nội tệ, tăng tỷ giá ngoại hối, nhờ vậy tỷ lệ lạm phát sẽ thấp hơn.
Ngược lại, khi thị trường ở tình trạng đình trệ, lúc này lãi suất sẽ giảm nhằm khuyến khích người tiêu dùng và doanh nghiệp vay tiền để chi tiêu và đầu tư. Lãi suất thấp giúp cho chi phí vay mượn giảm, qua đó thu hút NĐT và người dân vay vốn đầu tư và kinh doanh, tăng lượng tiền và sức mua trên thị trường, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sức mua tiêu dùng tăng dẫn tới giá cả mặt hàng trên thị trường tăng theo, từ đo gia tăng lạm phát. Lãi suất giảm cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế khi đó sẽ kém thu hút với các NĐT nước ngoài, khi họ tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở các quốc gia có lãi suất cao hơn. Từ đó nhu cầu về đồng nội tệ giảm dẫn đến tỷ giá hối đoái của quốc gia giảm, tức là đồng nội tệ sẽ yếu đi.
Thị trường việc làm
Mối quan hệ giữa lãi suấtvàthị trường việc làm là một trong những yếu tố quan trọng mà các nhà hoạch định chính sách, khi lãi suất có ảnh hưởng gián tiếp đến số lượng việc làm, mức độ thất nghiệp, và tình hình chung của thị trường lao động. Khi lãi suất thấp, chi phí vay mượn giảm, từ đó kích thích các doanh nghiệp vay thêm để mở rộng đầu tư sản xuất, mở rộng hay tuyển dụng nhân công để phát triển kinh doanh. Từ đó số lượng việc làm mở trên thị trường gia tăng, ảnh hưởng tích cực đến thị trường lao động. Ngoài ra, việc lãi suất giảm cũng sẽ làm tăng sức mua từ người tiêu dùng, các doanh nghiệp tù đó để đảm bảo nhu cầu đầu ra tăng cao bằng việc thuê thêm nhân công để ổn định sản xuất kinh doanh.
Ngược lại, khi lãi suất tăng, vấn đề vay mượn trở nên khó khăn hơn khiến các doanh nghiệp phải thu hẹp dần quy mô kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến giảm số lượng việc làm do các doanh nghiệp thu hẹp quy mô hoạt động hoặc không mở rộng sản xuất như dự định. Ngoài ra, việc tăng lãi suất cũng ảnh hưởng xấu tới mức chi tiêu trên thị trường. Chi phí vay nợ tăng sẽ khiến cho người tiêu dùng giảm chi tiêu khi lượng tiền trên thị trường được thắt chặt, từ đó nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ cũng sẽ giảm, buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm việc làm.
Nhu cầu vay nợ và tăng trưởng đầu tư sản xuất kinh doanh
Biến động lãi suất là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các cá nhân và doanh nghiệp. Khi lãi suất giảm, chi phí vay rẻ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn để mua sắm, mở rộng sản xuất, nâng cấp cơ sở vật chất hoặc mở rộng thị trường. Ngoài ra, khi lãi suất giảm, chi phí tài chính của doanh nghiệp cũng giảm qua đó giúp họ giảm bớt gánh nặng chi phí vay nợ và tăng cường năng lực sản xuất. Tương tự đối với các NĐT cá nhân, lãi suất thấp sẽ khiến cá nhân chuyển hướng đầu tư sang các kênh khác hơn là việc gửi ngân hàng lấy lãi như TTCK hay Bất động sản,… giúp các thị trường đầu tư có mức thanh khoản lớn hơn, tạo ra niềm tin cho NĐT. Qua đó, ta có thể thấy các chính sách giảm lãi suất thường thúc đẩy đầu tư và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế.
Trong chiều hướng ngược lại, khi Chính phủ và NHNN đưa ra các chính sách nâng mức lãi suất điều hành, các nguồn vốn trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận. Ngoài ra, chi phí vay mượn tăng cao cũng sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng sản xuất và đầu tư khi lo ngại lợi suất kì vọng không đủ để bù đắp chi phí. Các khoản vay tiêu dùng, vay mua nhà hoặc các khoản vay cho dự án mới cũng giảm đi, vì chi phí lãi vay tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Sức mua yếu đi cùng với nhu cầu giảm sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm và hàng hóa giảm, bớt đi áp lực lạm phát và giảm nhiệt nền kinh tế.
Thị trường đầu tư nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng
Như đã đề cập ở trên, lãi suất và chi phí nguồn vốn có mối quan hệ trực tiếp với nhau, ảnh hưởng đến các quyết định của NĐT. Đi sâu vào thị trường đầu tư tài chính, lãi suất có ảnh hưởng lớn đến nhiều thị trường tài sản như thị trường chứng khoán,bất động sản,hàng hóa, và cáctài sản tài chính khác. Khi lãi suất thấp, lợi tức từ các công cụ tài chính an toàn như trái phiếu và tiền gửi tiết kiệm giảm, khiến nhà đầu tư chuyển sang các khoản đầu tư rủi ro nhưng sinh lợi cao hơn như cổ phiếu, bất động sản, hay các sản phẩm tài chính khác. Điều này làm tăng dòng tiền đổ vào thị trường đầu tư chứng khoán, BĐS,…
Nói riêng về TTCK, lãi suất thấp giúp cho các doanh nghiệp giảm áp lực từ chi phí vốn, từ đó gia tăng khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận, góp phần đẩy giá cổ phiếu các doanh nghiệp lên cao hơn. Hay với thị trường BĐS, chi phí vay thế chấp thấp hơn giúp cho người dân trở nên dễ dàng hơn trong quyết định mua nhà dẫn tới như cầu BĐS gia tăng. Lúc này, nhu cầu thị trường nhà đất tăng cao, qua đó đẩy mức giá bất động sản tăng lên giúp cho thị trường trở nên hấp dẫn hơn với các NĐT cả trong lẫn ngoài nước. Tương tự với các mặt sản phẩm đầu tư tài chính khác.
Ngược lại, lãi suất cao có xu hướng kìm hãm đầu tư và chi tiêu tiêu dùng, từ đó làm giảm giá trị tài sản rủi ro, kìm hãm tăng trưởng kinh tế, và làm cho đồng tiền tệ của quốc gia mạnh hơn, nhưng đồng thời cũng làm cho xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn.
NHTW điều hành lãi suất như thế nào?
Sử dụng công cụ lãi suất điều hành
Để kiểm soát tình hình kinh tế thị trường trong nước, Chính phủ và NHNN, như đã đề cập ở trên, sẽ sử dụng các loại lãi suất điều hành khác nhau cho từng trường hợp riêng biệt trong việc cấp vốn vào hệ thống ngân hàng cũng như thị trường. Các loại lãi suất điều hành như lãi suất OMO, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu,… đều sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến lãi suất thực trên thị trường kinh tế và tài chính. Mục tiêu chính của NHTW khi điều chỉnh lãi suất là kiểm soát lạm phát,ổn định tiền tệ,hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, vàduy trì sự ổn định tài chính.
Can thiệp tỷ giá hối đoái để điều chỉnh lãi suất
Bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để tác động lên tỷ giá, NHNN có thể dùng công cụ này nhằm kiểm soát lãi suất trước các cú sốc kinh tế trong và ngoài nước. Trong điều kiện kinh tế suy giảm, NHNN cần giảm lãi suất để thúc đẩy nền kinh tế, họ có thể thực hiện mua vào ngoại tệ nhằm đưa đồng nội tệ ra thị trường, tăng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Khi cung tiền nội tệ tăng, chi phí vay mượn vốn giảm, và lãi suất thị trường sẽ có xu hướng giảm. Điều này kích thích doanh nghiệp và người tiêu dùng vay mượn để đầu tư và tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi NHNN cần tăng lãi suất để hạ nhiệt nền kinh tê đang tăng trưởng quá nhanh, cùng với mục tiêu kiểm soát lạm phát, họ có thể thực hiện bán ra ngoại tệ nhằm giảm lượng cung tiền trên thị trường. Khi tiền nội tệ trở nên khan hiếm hơn, chi phí vay vốn tăng lên, và điều này khiến lãi suất tăng. Lãi suất cao có thể giúp kiểm soát lạm phát và kiềm chế tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này cũng gây ra tồn đọng một số rủi ro cho nền kinh tế. Khi mua ngoại tệ để bơm tiền vào nền kinh tế, nếu lượng cung tiền tăng quá mức, có thể dẫn đến lạm phát. Ngoài ra, nếu NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ liên tục để ổn định tỷ giá, lượng dự trữ ngoại hối của quốc gia sẽ bị sụt giảm. Điều này có thể dẫn đến giảm khả năng chống đỡ các cú sốc tài chính từ bên ngoài.
Áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là yêu cầu của NHNN đối với các ngân hàng thương mại về việc giữ lại một tỷ lệ nhất định trên tổng tiền gửi của khách hàng dưới dạng dự trữ. Khi tỷ lệ này thay đổi, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cung cấp vốn của các ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.
Khi Chính phủ và NHNN tăng lỷ lệ dự trữ bắt buộc, lượng tiền các ngân hàng được dùng để cho vay giảm, dẫn tới nguồn cung tiền trong thị trường thu hẹp, cũng như tăng lãi suất cho vay vì cạnh tranh giữa các người vay. Và khi NHNN giảm tỷ lệ này, ngân hàng sẽ được hưởng lợi khi có thể sử dụng nhiều nguồn vốn hơn để cho vay hoặc đầu tư. Khi có nhiều tiền hơn để cho vay, ngân hàng giảm lãi suất để thu hút người vay, kích thích tiêu dùng và đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Áp dụng tỷ lệ an toàn vốn
Tỷ lệ an toàn vốn Basel hay Tỉ lệ Basel là chỉ tiêu được đặt ra bởi Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision - BCBS) nhằm đảm bảo các ngân hàng duy trì đủ vốn để đối phó với rủi ro. Một trong những yếu tố quan trọng của chỉ số Basel là tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu CAR (Capital Adequacy Ratio), đây là tỷ lệ giữa vốn tự có của ngân hàng (vốn điều lệ hay vốn được cấp của chi nhánh) so với tài sản có rủi ro. Khi NHNN yêu cầu các ngân hàng phải duy trì nhiều vốn hơn để giảm thiểu rủi ro, cùng với đó lượng tiền cho vay cũng sẽ ít hơn. Lượng cung tiền giảm dẫn tới lãi suất tăng, các ngân hàng khi đó sẽ phải thắt chặt tín dụng, giảm nguồn vốn vay cho doanh nghiệp và cá nhân, làm chậm lại tăng trưởng kinh tế.
Chính sách Room tín dụng ngân hàng
Room tín dụng là hạn mức tín dụng tối đa mà NHNN cấp cho các ngân hàng thương mại mỗi năm, là công cụ quản lý mà NHNN sử dụng để kiểm soát tổng lượng tiền mà các ngân hàng có thể cho vay trong nền kinh tế. Khi NHNN giới hạn room tín dụng, ngân hàng thương mại không thể cung cấp thêm các khoản vay. Điều này làm giảm cung tiền trong nền kinh tế, dẫn đến việc tăng lãi suất cho vay do ngân hàng cần phân bổ nguồn vốn hạn chế cho các khoản vay có lợi nhuận cao nhất. Khi này, hạn chế tín dụng khiến các ngân hàng cũng thận trọng hơn trong việc cho vay, yêu cầu các khoản vay phải có mức lợi nhuận cao hơn, điều này cũng làm tăng lãi suất.
Trong trường hợp ngược lại, NHNN nới lỏng room tín dụng, các ngân hàng thương mãi được gia tăng nguồn cung cho vay, đưa được lượng tiền lớn hơn vào nền kinh tế. Khi đó, các ngân hàng sẽ hạ lãi suất vay vốn cho doanh nghiệp và tư nhân để tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, khi tín dụng được cung ứng nhiều hơn, ngân hàng giảm lãi suất để khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư.
Áp dụng lãi suất vào hoạt động đầu tư
Xác định chu kỳ kinh tế và thời điểm đầu tư phù hợp
Lãi suất có xu hướng phản ánh trạng thái của nền kinh tế và cung cấp tín hiệu về sự thay đổi trong tăng trưởng, lạm phát, và điều kiện thị trường. Dựa vào đó, nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định về thời điểm thích hợp để đầu tư vào các kênh khác nhau như chứng khoán, bất động sản, trái phiếu,...
Trong mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh tế, chính sách lãi suất của Chính phủ và NHNN sẽ có những đặc điểm khác nhau. Trong giai đoạn mở rộng, lãi suất thường thấp hoặc ở mức vừa phải để khuyến khích vay vốn và đầu tư, nhằm thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư kinh doanh sản xuất. Đến giai đoạn đỉnh điểm, lãi suất bắt đầu có xu hướng tăng lên khi Ngân hàng Trung ương muốn kiểm soát lạm phát. Giai đoạn suy thoái sau khi đạt đỉnh thường sẽ đi cùng với việc NHNN giảm lãi suất để kích thích lại nền kinh tế, giảm chi phí vốn và khuyến khích đầu tư, tiêu dùng. Lãi suất sẽ đạt mức thấp nhất ở đáy chu kỳ, nền kinh tế ở mức thấp sẽ khiến NHNN dùng các công cụ tiền tệ để bơm vốn vào nền kinh tế.
Theo dõi các chính sách tiền tệ và biến động lãi suất là việc rất cần thiết cho NĐT trong việc xác định thời điểm phù hợp để giải ngân vốn để mang về lợi nhuận. Ngân hàng trung ương thường điều chỉnh lãi suất dựa trên các chỉ báo kinh tế như lạm phát, thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi chính sách tiền tệ thắt chặt (lãi suất tăng), điều này thường báo hiệu rằng nền kinh tế đang ở đỉnh hoặc gần suy thoái. Lúc này, dòng tiền thắt chặt khiến các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khắn trong việc kinh doanh, ảnh hưởng tới thị trường Chứng khoán. Lãi suất tăng cũng khiến nhu cầu mua BĐS giảm sút, ảnh hưởng xấu tới thị trường này. Ngược lại, chính sách tiền tệ mở rộng (lãi suất giảm) có thể là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế cần kích thích để phục hồi.
Lựa chọn ngành đầu tư phù hợp
Trong mỗi giai đoạn của nền kinh tế, lãi suất sẽ biến động khác nhau vừa có thể là trở ngại cho các doanh nghiệp, nhưng trong đó vẫn xuất hiện cơ hội thu về lợi nhuận khác. Lãi suất giảm thường là dấu hiệu tích cực cho thị trường, dòng tiền sẽ được bơm vào nền kinh tế, chi phí lãi vay giảm giúp cho cá nhân và doanh nghiệp sẵn sàng vay vốn để đầu tư, kinh doanh hay tiêu dùng. Đây thường là tín hiệu để bắt đầu tăng cường đầu tư, đặc biệt vào các tài sản rủi ro cao hơn như cổ phiếu hoặc bất động sản, vì nền kinh tế có thể đang trong giai đoạn mở rộng hoặc phục hồi sau suy thoái.
Ngược lại, trong giai đoạn lãi suất tăng cao, nguồn vốn đầu tư bị co chặt do chi phí vay lớn, các ngạch đầu tư có rủi ro lớn như Cổ phiếu hay BĐS sẽ không còn hấp dẫn. Thay vào đó, Đây là lúc nhà đầu tư có thể cân nhắc giảm thiểu rủi ro bằng cách chuyển sang trái phiếu ngắn hạn hoặc tiền gửi ngân hàng. Các khoản đầu tư này thường có lãi suất cố định và mức độ rủi ro thấp, mang lại tính an toàn cho NĐT.
Định giá tài sản
Lãi suất là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến định giá tài sản trong hầu hết các thị trường tài chính và đầu tư. Trong các mô hình định giá chứng khoán, thông thường giá trị công ty sẽ được chiết khấu ngược từ dòng tiền tương lai (mô hình DCF hay CAPM) theo tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ này được tạo nên từ lãi suất phi rủi ro (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) và phần bù rủi ro. Do đó, khi lãi suất tăng, tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng theo, dẫn đến việc giá trị hiện tại của dòng tiền giảm, hạ mức định giá cổ phiếu xuống thấp. Ngược lại, khi lãi suất giảm, tỷ lệ chiết khấu giảm, khi đó giá trị cổ phiếu sẽ có mức định giá cao hơn. Tương tự đối với định giá trái phiếu.
Một trường hợp khác trong ngành BĐS, các NĐT có thể sự dụng đến mô hình định giá bất động sản dựa trên thu nhập, dựa trên tỷ lệ Capitalization Rate (Cap rate), hay tỷ lệ giữa thu nhập ròng từ bất động sản và giá trị tài sản. Lãi suất tăng thường dẫn đến việc tăng tỷ lệ Cap rate, khiến giá trị bất động sản giảm (trong trường hợp giá trị tài sản không thay đổi). Và trong chiều ngược lại, khi lãi suất giảm, Cap rate cũng giảm, giúp giá trị bất động sản tăng lên.
Lãi suất là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến định giá tài sản trong hầu hết các thị trường tài chính và đầu tư. Khi lãi suất thay đổi, nhà đầu tư cần cân nhắc đến cách mà lãi suất mới ảnh hưởng đến chi phí vốn, dòng tiền, và tỷ lệ chiết khấu để định giá chính xác tài sản, từ đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp.
Đánh giá rủi ro
Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và quản lý rủi ro trong các lĩnh vực tài chính, đầu tư, và kinh tế. Thay đổi lãi suất có thể tạo ra những biến động lớn trong thị trường và ảnh hưởng đến nhiều yếu tố như chi phí vay, giá trị tài sản, và dòng tiền. Trong từng loại rủi ro khác nhau, trong mỗi loại rủi ro lãi suất sẽ đóng các vai trò riêng biệt để đánh giá các rủi ro đó:
- Rủi ro lãi suất: Biến động lãi suất ảnh hưởng đến giá trị tài sản và nghĩa vụ nợ, đặc biệt là các khoản vay có lãi suất cố định hoặc biến đổi. Khi lãi suất tăng, giá trị trái phiếu và tài sản nợ giảm.
- Rủi ro tái cấp vốn: Khi lãi suất giảm, các khoản đầu tư đáo hạn phải tái đầu tư vào tài sản có lãi suất thấp hơn, dẫn đến giảm lợi nhuận.
- Rủi ro tín dụng: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay, khiến doanh nghiệp hoặc cá nhân có nguy cơ không thể trả nợ, gia tăng rủi ro tín dụng.
- Rủi ro thanh khoản: Lãi suất tăng có thể gây áp lực bán tài sản kém thanh khoản, ảnh hưởng đến khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt.
- Rủi ro thị trường: Lãi suất ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, bất động sản và hàng hóa. Khi lãi suất tăng, chi phí vốn cao hơn làm giảm giá trị cổ phiếu và bất động sản.
- Rủi ro tỷ giá: Chênh lệch lãi suất giữa các quốc gia có thể làm biến động tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đến các khoản đầu tư quốc tế.
- Rủi ro lạm phát: Nếu lãi suất không theo kịp lạm phát, sức mua giảm, làm giảm giá trị thực của các tài sản và dòng tiền.
- Rủi ro kinh tế vĩ mô: Thay đổi lãi suất có thể ảnh hưởng đến chu kỳ kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng và hoạt động đầu tư.
Lịch sử biến động lãi suất qua các chu kỳ kinh tế tại Việt Nam
Biến động lãi suất tại Việt Nam từ năm 2000 đến 2023 phản ánh sự điều chỉnh chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm thích ứng với các chu kỳ kinh tế và các điều kiện vĩ mô của đất nước. Qua các thời kỳ, lãi suất biến động mạnh mẽ theo diễn biến lạm phát, tăng trưởng kinh tế và các yếu tố ngoại lực như khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Giai đoạn 2000 – 2010:
Trong giai đoạn từ 2000 đến 2007, nền kinh tế Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ và ổn định, khi chỉ số tăng trưởng GDP luôn được neo ở mức khá cao (giao động 6 – 7.5% mỗi năm). Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2006, lượng vốn FDI vào Việt Nam gia tăng mạnh, lượng FDI ròng tăng từ mức 2.4 tỷ USD vào năm 2006 (3.62% GDP) lên mức 6.7 tỷ USD (8.65% GDP) vào năm 2007. Chính phủ và NHNN không chỉ đưa ra các chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế toàn cầu, nhằm ổn định tốc độ tăng trưởng và nền kinh tế, họ đã duy trì chính sách tiền tệ tương đối ổn định, với lãi suất tái cấp vốn được duy trì trong khoảng 5 – 6.5%. Việc duy trì lãi suất điều hành ở mức ổn định đã giúp cho nề kinh tế phát triển nhanh với lạm phát được kiểm soát ở mức vừa phải.
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008 đã tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, khiến nền kinh tế chững lại, xuất khẩu và dòng vốn đầu tư giảm mạnh. Mặc dù vốn ròng FDI vẫn tăng trưởng mạnh ở mức 43%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng GDP lại giảm xuống mức 5.66% (giảm gần 1.5% so với tốc độ tăng trưởng 2007). Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng lạm phát trong năm cũng đã tăng phi mã lên mức 23%, gây ra nhiều khó khăn cho hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất và sức mua tiêu dùng trong nền kinh tế. Vì lí do đó, để kìm hãm và ổn định lại lạm phát, Chính phủ và NHNN đã phải thắt chặt dòng tiền trong nền kinh tế khi tăng mức lãi suất điều hành lên gần gấp đôi (6.5% vào năm 2007 tăng lên mức 12.58% vào năm 2008). Nhờ đó, lạm phát trong 2 năm cuối của chu kỳ này đã được kéo về mức an toàn và nền kinh tế cũng đã dần ổn định hơn, trước khi đối mặt với những thách thức vào năm 2011.
Giai đoạn 2011 – 2020:
Nền kinh tế Việt Nam trải qua một cuộc khủng hoảng lạm phát nghiêm trọng vào năm 2011, với lạm phát đạt mức 18.68%. Các vấn đề như thâm hụt thương mại lớn, tăng trưởng tín dụng quá cao, và bong bóng bất động sản đã dẫn đến sự bất ổn tài chính. Ngoài ra, tác động bên ngoài do giá trị hàng hóa quốc tế tăng cao khiên cán cân thương mại của Việt Nam mất cân đối khi giá trị xuất khẩu trong nước chưa đủ mạnh để cân bằng. Tình hình kinh tế tiêu cực cộng với lạm phát tăng cao (một trong những mức cao nhất Đông Nam Á khi đó) là nguyên nhân khiến Chính phủ phải đưa ra các chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng mức lãi suất điều hành để kiềm chế lạm phát, đồng thời giảm cung tiền và tăng cường quản lý chặt chẽ tín dụng. Mức lãi suất tái cấp vốn từ NHNN tăng từ mức 8.08% năm 2010 lên mức 12.5% vào năm 2011. Điều này tác động trực tiếp đến các Doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn, thu hẹp kinh doanh sản xuất, suy giảm sức mua và ảnh hưởng đến cuộc sống người dân.
Trong nửa sau của chu kỳ này, giai đoạn 2014 – 2020, kinh tế Việt Nam bắt đầu ổn định trở lại, với tăng trưởng GDP tăng dần và đạt mức 7.47% vào năm 2018. Lạm phát cũng được kiểm soát ở mức thấp hơn, từ 1-4% mỗi năm. NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, lãi suất điều hành tài cấp vốn duy trì ở mức 6 - 7%. Lãi suất vay và huy động của các ngân hàng thương mại cũng giảm dần, khuyến khích tín dụng tăng trưởng trở lại, đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. Môi trường lãi suất thấp giúp thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư, đồng thời cải thiện khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp. Bất động sản và chứng khoán đều phục hồi mạnh mẽ, với sự gia tăng đáng kể về giao dịch và giá trị tài sản. Năm 2019, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định, với động lực chính cho tăng trưởng đến từ xuất khẩu, đầu tư nước ngoài (FDI), và tiêu dùng nội địa, GDP tăng trưởng rơi vào mức 7%. Đây là một trong những mức tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á.
Giai đoạn 2020 – nay:
Sự xuất hiện của đại dịch COVID-19, tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu và cả Việt Nam, với sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng, giảm sút xuất khẩu và hoạt động tiêu dùng. Các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội để kiểm soát dịch bệnh đã làm suy giảm hoạt động sản xuất và thương mại. Xuất khẩu, tiêu dùng nội địa và đầu tư đều sụt giảm. Năm 2020, GDP của Việt Nam chỉ tăng 2.87%, mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ, nhưng vẫn là một trong số ít các quốc gia có tăng trưởng dương trong bối cảnh suy thoái toàn cầu. Năm 2021, dịch bệnh tiếp tục bùng phát mạnh với biến thể Delta, khiến GDP trong quý III/2021 giảm sâu, và tăng trưởng cả năm chỉ đạt khoảng 2,55% (Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có tăng trưởng dương trong bối cảnh suy thoái toàn cầu). Với tình hình nền kinh tế như vậy, NHNN áp dụng chính sách tiền tệ siêu nới lỏng để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Lãi suất tái cấp vốn giảm mạnh xuống mức 5% vào năm 2020, và tiếp tục giảm xuống mức 4% một năm sau đó. Các ngân hàng thương mại cũng giảm lãi suất cho vay và huy động để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân.
Năm 2022 được coi là giai đoạn phục hồi kinh tế sau đại dịch, nền kinh tế bắt đầu phục hồi mạnh mẽ từ nửa cuối năm 2021 và tiếp tục trong năm 2022. GDP Việt Nam 2022 tăng trưởng ấn tượng ở mức 8.12%, một trong những mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Các lĩnh vực như xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, và tiêu dùng nội địa đều phục hồi sau quãng thời gian diễn biến đại dịch. Do tốc độ tăng trưởng quá mạnh mẽ, Chính phủ và NHNN bắt đầu thắt chặt dần chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát, mặc dù lãi suất vẫn ở mức tương đối thấp so với trước đại dịch. Lãi suất điều hành được điều chỉnh tăng nhẹ lên khoảng 4.42% vào năm 2022 để giảm áp lực lạm phát. Năm 2023, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đà phục hồi nhưng tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại, chủ yếu là do ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế toàn cầu, sự suy giảm nhu cầu xuất khẩu từ các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu. Áp lực lạm phát gia tăng do giá cả năng lượng và lương thực toàn cầu vẫn ở mức cao, gây khó khăn cho chính sách điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất có xu hướng tăng trở lại, tuy không nhiều (từ 4.42% năm 2022 tăng lên mức 5.13% năm 2023) để kiềm chế lạm phát, nhưng vẫn tạo ra ảnh hưởng đến chi phí vay vốn của doanh nghiệp và mức chi tiêu từ người dân.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam từ 2020 đến nay đã trải qua nhiều biến động lớn, nhưng nhờ các chính sách điều hành linh hoạt và khả năng thích ứng, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định và phục hồi mạnh mẽ sau khủng hoảng.
Case study về mối quan hệ giữa lãi suất và thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn Đại dịch Covid-19 (2020)
Bối cảnh nền kinh tế:
Trước đại dịch COVID-19, nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ với tỷ lệ thất nghiệp thấp và mức tăng trưởng ổn định. Lãi suất ở mức thấp duy trì trong nhiều năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn rẻ, đồng thời khuyến khích nhà đầu tư đổ vốn vào thị trường chứng khoán thay vì giữ tiền mặt hoặc đầu tư vào các tài sản an toàn như trái phiếu.
Tuy nhiên, vào đầu năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bắt đầu lan rộng, thị trường tài chính toàn cầu, bao gồm cả Mỹ, bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh khi nhiều lĩnh vực phải đóng cửa và giãn cách xã hội, đặc biệt là các ngành du lịch, khách sạn và hàng không. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhanh chóng, thu nhập giảm khiến tiêu dùng suy yếu, tác động tiêu cực đến doanh thu của các công ty niêm yết. NĐT dần có lo ngại về tác động của đại dịch đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế toàn cầu khiến họ đổ xô bán tháo cổ phiếu. Thị trường chứng khoán Mỹ rơi vào đợt sụt giảm mạnh, với chỉ số S&P 500 giảm gần 20% từ đầu năm đến tháng 3 năm 2020 (từ mức 3,225.5 điểm giảm xuống mức 2,584.6 điểm).
Phản ứng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED):
Để đối phó với tác động của đại dịch, Fed đã nhanh chóng triển khai một loạt biện pháp tài chính và tiền tệ:
- Giảm lãi suất nhanh chóng: Ngay trong tháng 3 năm 2020, Fed đã thực hiện hai đợt cắt giảm lãi suất khẩn cấp, hạ lãi suất cơ bản xuống mức gần 0% (0% - 0.5%). Điều này nhằm giảm chi phí vay vốn, kích thích đầu tư và tiêu dùng trong bối cảnh kinh tế trì trệ.
- Gói nới lỏng định lượng (Quantitative Easing): Fed công bố các gói mua lại trái phiếu và chứng khoán trị giá hàng nghìn tỷ USD để bơm thanh khoản vào nền kinh tế, giúp ổn định thị trường tài chính. Cụ thể, Fed cam kết mua vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và các tài sản tài chính khác để tạo thanh khoản dồi dào, đồng thời làm giảm lãi suất dài hạn.
- Cung cấp tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp: Fed cũng triển khai các chương trình tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tác động của việc giảm lãi suất tới thị trường chứng khoán:
Nhờ vào các biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ FED và Chính phủ Mỹ, thị trường chứng khoán Mỹ đã nhanh chóng quay lại đà phục hồi. Đến cuối năm 2020, chỉ số S&P 500 đã liên tiếp tăng trưởng và vượt qua mức trước đại dịch, liên tục đạt đỉnh trong nhiều tháng và kết thúc năm ở mức 3,756 điểm. Chỉ số Nasdaq, chủ yếu bao gồm các công ty công nghệ, thậm chí còn tăng mạnh hơn nhờ sự bùng nổ của các công ty công nghệ trong bối cảnh đại dịch. Lãi suất thấp khiến tâm lý NĐT dần hứng thú hơn với các khoản đầu tư có lợi nhuận và rủi ro lớn hơn, và chứng khoán là một trong số các lựa chọn đó. Việc đầu tư vào trái phiếu hay các tài sản an toàn khác trở nên kém hấp dẫn do lợi suất giảm, dẫn đến việc dòng vốn đổ mạnh vào thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, lãi suất giảm góp phần làm tăng định giá cổ phiếu vì chi phí vốn thấp, doanh nghiệp có thể vay vốn với chi phí rẻ để tái đầu tư và mở rộng sản xuất. Định giá cổ phiếu bằng các phương pháp khác nhau với lãi suất thấp giúp cho mức định giá cao hơn, góp phần đẩy giá cổ phiếu lên cao. Tuy nhiên, việc giữ lãi suất thấp trong thời gian dài cũng sẽ gây ra nhiều rủi ro cho nền kinh tế cũng như các NĐT. Lãi suất thấp kéo dài khiến giá cổ phiếu tăng mạnh, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc định giá có thể trở nên quá cao so với giá trị thực tế. Thêm vào đó, các gói kích thích tài chính lớn và lượng tiền bơm vào nền kinh tế có thể làm gia tăng áp lực lạm phát trong dài hạn. Điều này đã trở thành một thách thức vào năm 2022, khi lạm phát Mỹ đạt mức cao nhất trong nhiều thập kỷ.
Các bài học rút ra sau sự kiện kinh tế:
- Tầm quan trọng của chính sách tiền tệ trong thời kỳ khủng hoảng: Đối mặt với khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19, sau khi FED nhanh chóng hạ lãi suất xuống mức gần bằng 0% và tung ra các gói nới lỏng định lượng lớn để bơm thanh khoản vào nền kinh tế. Nền kinh tế nói riêng và thị trường chứng khoán Mỹ nói chung đã nhanh chóng cho thấy sự hồi phục mạnh mẽ sau khủng hoảng. Việc duy trì lãi suất thấp làm giảm chi phí vốn, thúc đẩy các doanh nghiệp vay mượn để mở rộng sản xuất và nhà đầu tư tìm kiếm các tài sản có lợi suất cao hơn như cổ phiếu.
- Cân bằng giữa chính sách tài khóa và tiền tệ: Bài học từ giai đoạn COVID-19 là chính sách tiền tệ của Fed cần phải được phối hợp chặt chẽ với các biện pháp tài khóa từ chính phủ (như gói hỗ trợ tài chính trực tiếp, trợ cấp thất nghiệp, và hỗ trợ doanh nghiệp). Sự kết hợp giữa việc cắt giảm lãi suất và chi tiêu công đã giúp giảm bớt tác động tiêu cực của đại dịch lên nền kinh tế Mỹ.
- Tâm lý NĐT với lãi suất và thị trường đầu tư: Thị trường chứng khoán Mỹ thời kỳ COVID-19 đã cho thấy NĐT cực kỳ nhạy cảm với các thông báo từ Fed. Mọi động thái của Fed, đặc biệt là những tuyên bố về lãi suất và chính sách tiền tệ, đều có tác động lớn đến tâm lý và hành vi của NĐT.
- Rủi ro từ việc phụ thuộc vào lãi suất thấp: Lãi suất thấp và kỳ vọng lợi nhuận cao từ thị trường chứng khoán đã tạo ra hiện tượng FOMO (Fear of Missing out), khi nhiều nhà đầu tư đổ xô mua cổ phiếu để tận dụng cơ hội lợi nhuận. Điều này có thể dẫn đến đầu tư quá mức và tăng rủi ro điều chỉnh mạnh sau khi lãi suất tăng trở lại. Khi Fed điều chỉnh chính sách và tăng lãi suất trở lại để kiểm soát lạm phát, các tài sản rủi ro này có thể bị bán tháo mạnh, gây ra cú sốc cho thị trường.
- Bong bóng tài sản có thể hình thành: Việc giữ lãi suất quá thấp trong thời gian dài có thể dẫn đến định giá cổ phiếu tăng mạnh và tạo ra rủi ro bong bóng tài sản. Thị trường chứng khoán Mỹ, đặc biệt là các công ty công nghệ, đã ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ nhưng có những lo ngại về việc giá cổ phiếu tăng cao hơn nhiều so với giá trị thực.