Tìm hiểu chính sách tiền tệ: Lãi suất, cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở. Phân tích tác động đến thị trường tài chính cùng DSC Tài Chính Số

Ngân hàng nhà nước là gì? Các công cụ, nguyên lý điều hành NHNN
Tín phiếu là gì? phân loại, OMO và ứng dụng đầu tư
Cung tiền là gì? Phân loại, yếu tố & tác động
Dự trữ ngoại hối là gì? Vai trò, lịch sử và ứng dụng trong đầu tư
Chính sách tiền tệ là gì? Phân loại & Ứng dụng đầu tư
Liên ngân hàng là gì? Lãi suất, thanh khoản & ứng dụng
Cung tiền là gì và vai trò của nó quan trọng ra sao trong việc điều tiết nền kinh tế? Cung tiền, hay tổng phương tiện thanh toán (M2), đại diện cho toàn bộ lượng tiền tệ lưu thông trong một nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch và đầu tư của các chủ thể. Khái niệm này, cùng với chính sách tiền tệ, tạo thành một cặp chỉ báo thiết yếu để đánh giá sức khỏe và định hướng phát triển vĩ mô. Bài viết hôm nay của DSC Tài Chính Số sẽ đi sâu vào định nghĩa cung tiền, phân loại các khối tiền tệ dựa trên tính thanh khoản (MB, M1, M2, M3), các yếu tố đa dạng tác động đến cung tiền (từ Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại, dòng vốn ngoại đến chính sách tài khóa), cùng với những tác động của cung tiền lên lãi suất, chu kỳ kinh doanh và lạm phát. Đồng thời, chúng ta sẽ nhìn lại lịch sử cung tiền tại Việt Nam và những ứng dụng thực tiễn của nó trong phân tích đầu tư, giúp nhà đầu tư có cái nhìn toàn diện về một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô cốt lõi này. Cung tiền hiểu theo nghĩa chung nhất là lượng tiền tệ cung ứng trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ, tài sản, v.v... của các cá nhân (hộ gia đình) và doanh nghiệp (không kể các tổ chức tín dụng). (Giáo trình tài chính - tiền tệ - Nguyễn Văn Tiến). Khái niệm cung tiền được sử dụng ở mỗi quốc gia không giống nhau, tùy thuộc vào quy định của chính sách tiền tệ tại mỗi nơi. Hầu hết các quốc gia đo cung tiền bằng khái niệm tiền mở rộng (M2). Tuy nhiên định nghĩa cung tiền M2 cũng có sự khác biệt ít nhiều giữa các quốc gia. Tại Việt Nam, cung tiền hay còn gọi là tổng phương tiện thanh toán (M2) được định nghĩa bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng, các khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân là người cư trú của Việt Nam, các loại giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ do các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành cho các tổ chức, cá nhân là người cư trú của Việt Nam. Công thức tính tổng phương tiện thanh toán (M2) theo GSO: Tổng phương tiện thanh toán (M2) = Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng + Tiền gửi + Các loại giấy tờ có giá Trong đó: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng = Tổng số tiền do NHNN phát hành - Tiền mặt tồn quỹ tại NHNN, KBNN và tại các TCTD, chi nhánh NHNN Cung tiền được phân loại dựa trên tính thanh khoản của các thành phần: Có nhiều chủ thể có thể tác động đến mức cung tiền: NHNN có thể tác động đến cung tiền thông qua các công cụ nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ như: Dòng vốn ngoại: Đối với các quốc gia có độ mở lớn (bao gồm Việt Nam), dòng vốn nước ngoài cũng có tác động lớn đến cung tiền của nền kinh tế. Ngoài công thức tính M2 như đã trình bày trước đó, M2 còn được xác định như sau: M2 = Tài sản có nước ngoài ròng (NFA) + Tài sản có trong nước ròng (NDA) Trong đó, tài sản có trong nước ròng được đại diện bằng tín dụng nội địa ròng gồm cho vay khu vực Chính phủ và khu vực tư nhân. Trong khi tài sản nước ngoài ròng liên quan đến trạng thái của cán cân thanh toán, chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bao gồm: Dòng vốn FDI, hoạt động xuất nhập khẩu hay việc vay nợ nước ngoài của Chính phủ để chi tiêu. Trong dài hạn, thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng mức cầu tiền tệ, xác định bằng một mức lãi suất cân bằng. Khi này cung tiền không phải yếu tố quan trọng quyết định lãi suất bởi khi cung tiền thay đổi có thể ảnh hưởng đến các yếu tố khác của nền kinh tế. Nếu các yếu tố này đủ bền vững thì ngay cả cung tiền tăng cũng sẽ có thể kéo theo lãi suất tăng. Cụ thể: Tại Mỹ, giai đoạn 1960 - 1980, khi tăng trưởng cung tiền tăng, lãi suất có xu hướng giảm, tuy nhiên mối quan hệ này không còn rõ ràng kể từ sau năm 1980. Tuy nhiên trong ngắn hạn, khi cầu tiền chưa kịp điều chỉnh, nếu NHNN tăng mức cung tiền sẽ khiến lãi suất giảm. Vì vậy, cung tiền tác động đến lãi suất trong ngắn hạn nhiều hơn, trong khi lãi suất dài hạn chịu nhiều tác động từ các thay đổi của thu nhập, giá cả, kỳ vọng về lạm phát. Nhiều minh chứng từ quá khứ đã cho thấy cung tiền giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra chu kỳ kinh doanh. Tốc độ tăng trưởng cung tiền giảm trước hầu hết các cuộc suy thoái, cho thấy rằng tốc cung tiền có thể là nguyên nhân khiến chu kỳ kinh doanh biến động. Cung tiền có khả năng tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua từng thành phần: Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải tất cả những lần cung tiền giảm đều dẫn đến suy thoái kinh tế. Đối với lạm phát, khi cung tiền tăng nhanh hơn lượng hàng hóa sản xuất ra trong nền kinh tế sẽ khiến hàng hóa trở nên đắt hơn, từ đó dẫn đến lạm phát. Vì vậy, khi lạm phát tăng cao, NHTW có thể thu hẹp mức độ cung tiền nhằm kiểm soát tỷ lệ này, tuy nhiên cần lưu ý rằng, không phải bất kỳ khi nào cung tiền giảm đều sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, sự thu hẹp này có thể nhằm vẫn có thể đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát mà không khiến nền kinh tế rơi vào suy thoái. Quan sát giai đoạn từ 2003 - 1013, những quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao cũng thường có tốc độ tăng trưởng cung tiền cao. Mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát: Mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền được thể hiện rõ ràng với nền kinh tế Việt Nam. Mối quan hệ giữa cung tiền và tín dụng: Tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng tín dụng cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong suốt giai đoạn từ 2000 đến nay, cung tiền và tín dụng vẫn cho thấy mức độ tương quan lớn với nhau. Điều này là do đặc điểm nền kinh tế Việt Nam khi các thị trường huy động vốn khác là trái phiếu và cổ phiếu chưa đủ phát triển vì vậy tín dụng ngân hàng vẫn giữ vai trò chi phối cung tiền. Mối quan hệ giữa cung tiền và cán cân thanh toán: Điều này đã được thể hiện ở diễn biến trong năm 2022, tăng trưởng tín dụng tăng 14% trong khi tăng trưởng cung tiền chỉ tăng 6%. Cán cân thanh toán âm hơn 22,7 tỷ USD do áp lực tỷ giá khi chênh lệch lãi suất cao giữa Việt Nam và FED. NHNN phải bán ra một lượng lớn ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối để ổn định tỷ giá, khiến một lượng lớn tiền VND giảm mạnh trong lưu thông, từ đó khiến tốc độ tăng trưởng cung tiền thu hẹp. Như vậy, sự thay đổi cung tiền chủ yếu ảnh hưởng từ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước nhằm đạt được một mục tiêu nào đó có thể là lạm phát, tăng trưởng kinh tế, ổn định tỷ giá… Ngược lại, việc theo dõi các biến số vĩ mô cũng sẽ giúp nhà đầu tư dự báo và nhận biết được sự thay đổi từ chính sách tiền tệ. Sau đây là một số lưu ý khi đánh giá các hành động của NHNN:


Tìm hiểu dự trữ ngoại hối (DTNH) là gì, các nguồn hình thành và yếu tố ảnh hưởng. Khám phá vai trò, lịch sử biến động DTNH Việt Nam và mối liên hệ với VNIndex.
Định nghĩa
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý tiền tệ cao nhất của một quốc gia, có nhiệm vụ phát hành tiền, điều hành chính sách tiền tệ, quản lý hệ thống ngân hàng và ổn định giá trị đồng tiền.
Định nghĩa
Thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) là nơi các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính vay mượn lẫn nhau trong ngắn hạn, nhằm điều hòa thanh khoản và đảm bảo khả năng chi trả tạm thời.
Định nghĩa
Tín phiếu là một loại công cụ nợ ngắn hạn do Chính phủ hoặc Ngân hàng Trung ương phát hành, nhằm huy động vốn tạm thời hoặc điều tiết lượng tiền trong lưu thông.
Định nghĩa
Cung tiền (Money Supply) là tổng lượng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế tại một thời điểm nhất định, bao gồm tiền mặt do người dân nắm giữ và tiền gửi tại các ngân hàng.
Định nghĩa
Chính sách tiền tệ (Monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) nhằm điều tiết nền kinh tế vĩ mô như: ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Định nghĩa
Dự trữ ngoại hối là một nhóm tài sản có tính thanh khoản cao, có thể quy đổi sang ngoại tệ, được nắm giữ và quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước, để thực hiện các mục đích duy trì thanh khoản của các hoạt động thanh toán quốc tế trong nước và đặc biệt là đảm bảo tính ổn định của biến động tỷ giá, bảo vệ nền kinh tế khỏi biến động lớn từ quốc tế.